Tên di sản : Nhà thờ họ Nguyễn Đình
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 2512/QĐ-UBND
Giới thiệu
Về cảnh quan: Hiện nhà thờ được tọa lạc trên một khu đất rộng, cao ráo và thoáng mát nhìn về hướng tây bắc và thuộc phía tây nam của xã Phú Yên; phía bắc của huyện Thọ Xuân - nơi có dòng sông Chu chảy qua ở phía bắc, có diện tích là 241m2. Bốn phía đông, tây, nam, bắc đều giáp khu vực dân cư.
Đi từ ngoài vào ta gặp cổng nhà thờ được xây bằng gạch với hai trụ vuông có chiều cao mỗi bên là 2,5m, bên ngoài được trát bởi một lớp vôi vữa. Phần mái của cổng được đổ bê tông cốt thép và trang trí ngói ống loại nhỏ màu vàng nhạt. Giữa đỉnh mái hai bên được trang trí đôi rồng chầu nhật. Bốn góc mái được trang trí bốn con rồng cách điệu.
Về quy mô cấu trúc, nhà thờ là một ngôi nhà gồm ba gian với bốn hàng chân cột, được xây dựng theo kiểu tường hồi bít đốc, cấu trúc theo kiểu chữ nhất (-) với chiều rộng là 7,21m; chiều dài là 9,1m có tổng diện tích là 65,611m2.
Phần bờ nóc của ngôi nhà được đắp và trang trí hoa văn theo kiểu đường Triện cách điệu. Ngay chính giữa của bờ nóc trang trí một hình mặt nguyệt cách điệu. Hai phía của bờ nóc được đắp đấu trụ vuông.
Bờ giải được đắp theo kiểu giả Tam sơn. Ngoài ra, hai bên phía trước nhà thờ còn có hai trụ biểu xây bằng gạch có chiều cao là 3,5m. Phía trên mỗi trụ biểu có gắn một hình búp sen bằng sứ.
Kết cấu kiến trúc khung gỗ của nhà thờ được làm theo kiểu “Thượng chồng rường, hạ kẻ chuyền”. Liên kết giữa các cột cái trước và cột cái sau là hệ thống xà lòng ăn mộng vào thân một cái của mái sau và mái trước. Đầu xà lòng gác lên cột quân.
Liên kết giữa các cột con và cột hiên là các kẻ bẩy. Các bộ vì kèo hiên trước được kết cấu theo kiểu chồng rường đấu dế đón lá dong, mái lợp ngói mũi.
Quan sát một vì kèo nhìn từ phía trước vào chúng ta thấy sự liên kết từ cột quân ra cột hiên là các bẩy được đỡ bằng các kẻ hiên. Kẻ hiên này có nhiệm vụ trực tiếp đỡ các hoành tải phía trên, còn các đầu kẻ, đầu bẩy ở đầu cột hiên có chức năng đỡ các tàu mái.
Phần nối giữa các cột cái với các cột quân ở phía trong là hệ thống các con rường. Các con rường được chồng lên nhau bởi các đấu trụ trang trí hình cánh sen.
Bộ vì nóc phía trên câu đầu là hai con rường chồng lên nhau và thu hẹp dần theo kết cấu nóc mái ngôi nhà. Các con rường được đỡ bởi các đấu trụ vuông nằm trên câu đầu. Đầu con rường thứ nhất trên bộ vì nóc ăn mộng vào đầu cột lớn; đầu con rường thứ hai ăn mộng vào đầu cột đứng. Hai trụ đứng này được nối với nhau bởi một con rường dài nằm ngang ăn mộng vào trụ đứng đỡ hai hoành tải của mái trước và mái sau. Trên cùng là một đấu bát đỡ thượng lương, đây là điểm mút cuối cùng của cấu trúc bộ vì kèo. Toàn bộ hệ thống khung gỗ và dui, mè của nhà thờ đều được làm bằng các loại gỗ mít, dổi, lát và gỗ lim.
Theo thứ tự, nhìn từ đỉnh nóc xuống là một đấu bát nằm trên một con rường bụng lợn có nhiệm vụ đỡ Thượng lương. Phía dưới là hai đấu trụ được đỡ bởi các đấu vuông phía trên câu đầu. Để đỡ các hoành tải là hệ thống kẻ chuyền.
Kẻ thứ nhất là kẻ ngồi ăn mộng vào đấu trụ và điểm mút của câu đầu. Tiếp đến là một kẻ chuyền ăn mộng vào cột cái, đầu dưới của kẻ này ăn mộng vào đầu xà lòng.
Đặc biệt, phía ngoài hiên là hệ thống chống trường gồm 6 con rường đỡ các hoành tải từ đầu cột cái xuống đến đầu cột hiên. Cuối cùng là một bầy hiên mà nghé ăn mộng vào đầu cột hiên. Đầu kẻ có nhiệm vụ đỡ tàu mái.
Tất cả các bộ vì kèo khung gỗ của ngôi nhà được tạo bởi một bố cục liên kết chặt chẽ, chắc chắn và có tính chất đăng đối giữa các bộ vì kèo với nhau.
Nghệ thuật trang trí:
Đề tài trang trí trong kiến trúc trên các đấu, trụ, đầu bẩy, đầu kẻ, xà nách, câu đầu, con rường...chủ yếu là các hoa văn hình chữ Thọ và hình hoa lá, hình rồng mây cách điệu.
Hình tượng lá cúc cách điệu ở đây chủ yếu được trang trí trên các con rường với nét chạm khắc sâu nhưng vẫn tạo nên được sự uyển chuyển, phóng khoáng, gần gũi với thiên nhiên cho ngôi nhà.
Các đấu trụ đỡ con rường đều được trang trí hình chữ Thọ.
Nhìn chung, đề tài trang trí trên các bộ vì kèo của ngôi nhà tương đối giống nhau và có tính đồng nhất, chủ yếu tập trung vào các đề tài như: rồng mây cách điệu, lá cúc cách điệu và hình chữ Thọ.
Về bài trí đồ thờ: gian chính giữa gồm có hai ban thờ. Ban thờ phía trong là nơi thờ tướng quân Nguyễn Quyền đặt một ngai thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng, hai bên đặt hai lọ cắm hoa bằng gỗ, chính giữa đặt một bát hương bằng đá vuông và một lư đồng vuông. Ban thờ phía ngoài là ban thờ Hội đồng gồm có một bát hương sứ, một lư đồng, một đôi hạc đồng, hai chân nến đồng. Phía trước ban thờ ngoài hai bên mỗi bên còn đặt một chân nến gỗ lớn và một lục bình bằng sứ cỡ lớn.
Gian thờ bên hữu gồm có hai lớp thờ. Lớp phía trên là nơi đặt ngai thờ, hai lọ cắm hoa và hai đài nước bằng gỗ. Lớp phía dưới đặt hai bát hương, một bát hương gốm, một bát hương sứ và ba đài nước bằng gỗ. Hai bên có hai lọ cắm hoa bằng sứ. Đây là nơi thờ các vị tổ đời tiếp theo của dòng tộc họ Nguyễn Đình.
Gian thờ bên tả là nơi thờ con cháu dòng tộc Nguyễn Đình gồm hai ban thờ. Ban thờ phía trong đặt một hương án bằng gỗ, phía trên là một ngai thờ gỗ và một gương thờ bằng gỗ. Ban phía dưới đặt một bát hương sứ trên đế gỗ ở giữa và ba đài nước bằng gỗ đặt trên một khay mịch gỗ. Bên tả đặt một lọ cắm hoa bằng gỗ, bên hữu đặt hai ống cắm hương bằng gỗ.
Ngoài ra, bên trong ngôi nhà, mỗi gian còn có một đôi câu đối và một bức đại tự ở gian giữa.
Nội dung bức đại tự như sau:
“Khắc thiệu cơ cừu”
Tạm dịch:
Khéo nối được truyền thống của cha ông.
Nội dung câu đối gian giữa:
“Các đạo Khâm sai Lê đại tướng
Kinh tụ bảo chiếu đế trùng phong”.
Tạm dịch:
Đại tướng Khâm sai các đạo dưới thời Lê
Từng được các triều đại phong kiến ban tặng chiếu báu
Nội dung câu đối gian hữu:
“Đế quyên trùng trùng dương tổ liệt
Thiên uy thế thế ngưỡng thần ma”.
Tạm dịch:
Mãi mãi chiêm ngưỡng sự uy linh của Thần.
Nội dung câu đối gian tả:
“Phong bệ tân lĩnh (?) thần mỹ tự
Lan đình thiêm úy tổ phương danh”
Tạm dịch:
Cung cấm phong Thần thêm mỹ tự
Thềm Lan tiên tổ tiếng (thơm) muôn đời.
Sân nhà thờ được lát bằng gạch bát vuông màu nâu đỏ có chiều dài là 9,1m, rộng 3,7m.
Ngoài ra, tại xã Phú Yên hiện còn khu Mộ của Tướng quân Nguyễn Quyền thuộc thửa đất số 495, tờ bản đồ số 09, tỉ lệ 1/2000 trên bản đồ địa chính xã Phú Yên. Khu mộ này đã được tôn tạo năm 1989 có hình chữ nhật với chiều dài là 17m, rộng 12,1m.
Bên cạnh còn có khu Mộ của phu nhân Tướng quân Nguyễn Quyền. Hiện ngôi mộ này thuộc tờ bản đồ số 13 của bản đồ địa chính xã Xuân Yên, thửa đất số 229, diện tích là 164,8m2.
Tóm lại, di tích nhà thờ họ Nguyễn Đình tuy kiến trúc không đồ sộ, những nét chạm khắc chưa phải là đặc sắc, tiêu biểu nhưng vẫn tạo nên được sự thoáng đạt, uyển chuyển, mềm mại hài hòa của công trình bằng những đường nét chạm khắc đơn giản và phóng khoáng cho ngôi nhà.
Các hiện vật trong di tích:
Hiện ở di tích Nhà thờ họ Nguyễn Đình gồm có các hiện vật sau:
Các hiện vật cổ:
Bát hương sứ: 02 cái; Bát hương đá: 01 cái; Hương án gỗ: 02 cái; Ống cắm hương: 02 cái; Lục bình sứ: 03 cái; Ngai thờ: 01 cái; Bài vị: 01 cái; Lọ cắm hoa 02; Lư đồng: 01 cái; Chấp sự: 01 bộ; Sập thờ: 02 cái; Khay mịch: 01 cái; Câu đối: 03 đôi; Đại tự: 01 bức; Sắc phong: 01 bản; Gia phả: 01 bản.
Hiện vật mới:
Lư đồng: 01 cái; Bát hương sứ: 01 cái; Hạc đồng: 01 đôi; Chân n��n đồng: 01 đôi; Chân nến gỗ: 01 đôi; Lục bình sứ: 01 đôi; Hương án gỗ: 01 cái; Sập thờ gỗ: 01 cái; Ngai thờ gỗ: 01 cái; Lọ cắm hoa: 02 cái lớn; 01 nhỏ; Đài nước lớn: 02 cái; nhỏ 02 cái; Khay mịch: 01 cái; Kiệu: 01 cái.